=====================================================================
Nếu công việc của bạn liên quan đến tiếng Nhật, có thể bạn sẽ phải dịch hợp đồng từ tiếng Việt sang tiếng Nhật. Ví dụ như câu dưới đây:
"Chúng tôi không chịu trách nhiệm nào với bất kỳ tổn hại nào xảy ra với khách hàng".
Câu này cũng có thể viết lại như sau:
"Chúng tôi không chịu bất kỳ trách nhiệm nào với bất kỳ tổn hại nào xảy ra với khách hàng".
Có thể thay "bất kỳ" bằng "bất cứ" cũng được.
Khi Dịch tiếng nhật các bạn nên chú ý dịch chuẩn ngữ pháp và đảm bảo văn phong cho văn bản đúng chuyên môn. vi dụ tài liệu kinh tế thì phải ngôn từ trong văn bản liên quan kinh tế.
Một số bạn sẽ dịch thành 全て (subete = mọi, tất cả):
全ての責任を負いません。 = Không chịu mọi trách nhiệm.
Tuy nhiên, nếu bạn dịch như vậy thì hợp đồng sẽ không chặt chẽ. Bởi vì như thế là bạn "không chịu mọi trách nhiệm" đối với khách hàng, nhưng sẽ phải chịu một hoặc một số trách nhiệm riêng lẻ đối với tổn thất của khách hàng.
Ví dụ, khách hàng có một số tổn hại và yêu cầu bạn chịu trách nhiệm A và trách nhiệm B. Nếu dùng "subete" thì bạn sẽ không chịu trách nhiệm A và B đồng thời, nhưng nếu khách hàng yêu cầu bạn chịu trách nhiệm A thôi mà không cần chịu trách nhiệm B thì về lý bạn sẽ bị đuối lý.
Tiếng Nhật có một từ tương ứng cho "bất kỳ" là いかなる inakaru ("bất kỳ", "bất cứ").
Bất kỳ trách nhiệm nào = いかなる責任 (ikanaru sekinin)
Bất kỳ tổn hại nào = いかなる損害 (ikanaru songai)
"Chúng tôi không chịu trách nhiệm nào với bất kỳ tổn hại nào xảy ra với khách hàng".
= 「我々は顧客のいかなる損害に対し�� �いかなる責任を負いません」
Ngoài ra, các bạn có biết dịch "các" và "mỗi" ra tiếng Nhật trong hợp đồng thế nào không, ví dụ "các công ty", "mỗi công ty"?
Tiếng Nhật dùng 諸 (sho, CHƯ) cho "các" và 各 (kaku, CÁC) cho "mỗi". Ví dụ "các công ty" có thể dùng 諸会社 và "mỗi công ty" là 各会社.
Với "mỗi" có thể dùng "sorezore" để nhấn mạnh thêm.
概要:ベトナム語契約を日本語に翻�� �するときの「bất kỳ」(いかなる)、「các」(諸)、 「mỗi」(各)の日本語翻訳の方法。
Dịch nối câu tiếng Nhật
Nối câu tiếng Nhật là gì?
Nối câu nghĩa là nối các ý bằng "Vて / Nで" hay "V(ます)/ Nであり". Ví dụ:
彼は留学生で,今大学で経済を勉強�� �ている.
Cậu ấy là du học sinh và hiện nay đang học kinh tế ở đại học.
He's a foreign student and is studying economy in an university now.
お金を稼いで貯金すればいつか豊か�� �なる.
Nếu bạn kiếm tiền và để dành thì lúc nào đó bạn sẽ giàu có.
If you earn money and save it, you will get rich someday.
フリーランサーをしており,スキル�� �ップも目指しています.
Tôi đang làm việc tự do và cũng đang nhắm tới nâng cao kỹ năng.
I'm a freelancer and am aiming for skill up, too.
彼女は優秀な学生であり,明るい性�� �を持っている.
Cô ấy là học sinh ưu tú và có tính cách tươi sáng.
She is an excellent student and has a bright character.
Cách dịch nối câu tiếng Nhật: "VÀ" (and)
========================================================================
Dịch tiếng Nhật rất dễ, nếu bạn phân tích được thành phần câu
Điều quan trọng khi dịch câu văn tiếng Nhật vẫn là phân tích được thành phần câu, gồm có 2 thành phần chính là CHỦ THỂ ("chủ ngữ"), sau đó là HÀNH ĐỘNG / TÍNH CHẤT / MÔ TẢ ("vị ngữ"), ngoài ra là các bổ ngữ. Các bổ ngữ này có thể bổ nghĩa cho chủ thể, hay cho hành động, hay bổ nghĩa cho một bổ ngữ khác.
Ví dụ câu văn sau:
人生とは本人が主役のドラマみたい�� �ものだ
Ở đây とは là để chỉ sự định nghĩa, tức là "LÀ".
人生とは~ = Cuộc đời là ~
Mô tả của chủ thể này là ものだ ("thứ, đồ"):
人生とは~ものだ = Cuộc đời là thứ ~
本人が主役のドラマみたいな là BỔ NGỮ bổ nghĩa cho もの. Tại sao có thể khẳng định như vậy?
Bởi vì nó có dạng tính từ (みたいな: Adj-"na") và phần phía trước 本人が主役のドラマ đi kèm với みたいな để tạo thành bổ nghĩa cho もの.
みたいな = giống như
=> 人生とは~みたいなものだ = Cuộc đời là thứ giống như ~
Cái khó nhất trong câu này chính là dịch được 本人が主役のドラマ. Thực ra thì cụm này có chủ thể là ドラマ, tức là "bộ phim truyền hình" còn 本人が主役 chỉ là bổ nghĩa cho ドラマ mà thôi. Tức là, vấn đề trở nên cực kỳ đơn giản:
本人が主役 = bản thân là diễn viên chính
ドラマ = bộ phim truyền hình
=> 本人が主役のドラマ = bộ phim truyền hình mà bản thân là diễn viên chính
Tóm lại:
人生とは本人が主役のドラマみたい�� �ものだ
= Cuộc đời là thứ giống như bộ phim truyền hình mà bản thân là diễn viên chính
Nếu bạn phân tích một câu thành Chủ thể, Hành động (hay Tính chất / Mô tả) và phân tích ra các bổ ngữ thì mọi câu văn sẽ cực kỳ đơn giản!
Đảo thứ tự để dịch an toàn
Bài trước tôi có nói về nguyên tắc "Không đảo thứ tự khi dịch tiếng Nhật", tuy nhiên có một (số) trường hợp thì chúng ta nên đảo để đảm bảo tính an toàn của văn bản dịch.
Đó là những trường hợp thế này:
AとBのC
AおよびBのC
Chúng ta sẽ không chắc lắm là ở đây nói đến danh từ nào:
A và BのC hay là AのC và BのC
Ví dụ:
硫黄と塩素の気体を混ぜる
硫黄 iou (LƯU HOÀNG) = lưu huỳnh
塩素 enso (DIÊM TỐ) = clo (chlorine)
気体 kitai (KHÍ THỂ) = chất khí
Ở đây ta sẽ không biết là trộn lưu huỳnh và chất khí clo hay là trộn chất khí lưu huỳnh và chất khí clo.
Nếu dịch là "Trộn chất khí lưu huỳnh và chất khí clo" thì lại thừa mất một "chất khí". Mà nếu nói là "Trộn chất khí lưu huỳnh và clo" thì có khi lại sai vì biết đâu lưu huỳnh là chất rắn và đọc câu đó thì người ta lại tưởng clo là chất rắn.
Do đó, để dịch an toàn thì ta sẽ dịch là:
Trộn chất khí clo và lưu huỳnh
Tức là đảo clo lên trước. Như vậy thì không lo hiểu nhầm vì ý nghĩa vẫn tương đương câu gốc: Người ta vẫn hiểu y nguyên và không biết lưu huỳnh có là chất khí hay không.
Điều quan trọng là ta đã dịch đúng ý nguyên (kể cả theo ý nghĩa là mang cả sự không rõ ràng của câu gốc vào câu dịch). Đảo trong trường hợp này không ảnh hưởng tới ý nghĩa vì hai danh từ này nhìn chung là ngang hàng nhau.
07-03-2013, 09:54 AM
Không đảo thứ tự hành động (và thứ tự danh từ)
Một trong những lỗi mà người dịch tiếng Nhật có thể mắc phải đó là thứ gì cũng đảo với lý do "tiếng Nhật ngược với tiếng Việt". Lý do này sai và hoàn toàn không chính đáng vì thực tế là tiếng Nhật không ngược với tiếng Việt chút nào cả, chỉ có cấu tạo ngữ pháp là khác mà thôi.
Ví dụ:
工場の建設・運営・管理を担当する�� �署
=> Phòng ban phụ trách việc xây dựng - vận hành - quản lý nhà máy
建設 kensetsu (KIẾN THIẾT) = xây dựng
運営 un'ei (VẬN DOANH) = vận hành
管理 kanri (QUẢN LÝ) = quản lý
Đây là bộ ba hành động liên tiếp và có thứ tự nên không thể dịch đảo ngược là "Phòng ban phụ trách quản lý, vận hành, xây dựng nhà máy" được.
Dịch như thế là vô nghĩa lý, vì việc đầu tiên phải làm vẫn là "xây dựng", có nhà máy rồi mới "vận hành, quản lý" được chứ.
Trong mọi trường hợp, tốt nhất không nên đảo gì hết. Ví dụ:
今年世界経済と日本の自動車産業は�� �滞している.
Năm nay kinh tế thế giới và công nghiệp xe hơi Nhật Bản đang đình trệ.
"Kinh tế thế giới" (世界経済) đứng trước "công nghiệp xe hơi Nhật Bản" (日本の自動車産業) nên nên dịch theo đúng thứ tự như vậy.
JAPANESE ABSTRACT
記事内容:日本語を翻訳するとき行�� �の順序を逆にして翻訳しないこと.� ��た,名詞の順序も同様である.
Một chữ kanji thường nhiều nghĩa
BÍ QUYẾT: HÃY TRA TỪ ĐIỂN THƯỜNG XUYÊN
Ví dụ như chữ 先 saki (TIÊN), nó có khá nhiều nghĩa mà nếu không chú ý sẽ rất dễ dịch nhầm thành "trước đây" (chỉ thời gian).
Các ý nghĩa chính:
"Trước" / "Lúc trước" (thời gian):
先輩 senpai (TIÊN BỐI) = người đi trước, bậc đàn anh/đàn chị
先月 sengetsu (TIÊN NGUYỆT) = tháng trước
祖先 sosen (TỔ TIÊN) = tổ tiên
先に saki ni = (làm gì) trước, ví dụ "về trước" /
先 saki = lúc trước
先ほど= lúc trước (lịch sự)
"Phía trước" (không gian):
この先 kono saki = phía trước chỗ này (chỉ phía mà từ chỗ bạn đứng theo ánh mắt của bạn)
道の先 = phía trước con đường
"Tương lai" (thời gian):
この先 kono saki = tương lai / trong tương lai
この先のこと saki no koto = chuyện tương lai
"Nơi, chỗ" (không gian):
取引先 torihikisaki = nơi giao dịch, đối tác giao dịch
仕入先 shiire saki = nơi lấy hàng
アルバイト先 arubaito saki = chỗ làm thêm
Như vậy, bạn có thể thấy là chữ "saki" này nhiều khi còn chỉ ý nghĩa có vẻ ngược nhau nữa, như:
先のこと saki no koto = chuyện lúc nãy (quá khứ)
この先のこと kono saki no koto = chuyện tương lai (tương lai)
Nó cũng dùng để chỉ "nơi / chỗ" (thay cho "tokoro") => Chỉ nơi bạn nhìn từ phía bạn.
Cách tốt nhất là chúng ta phải TRA TỪ ĐIỂN và nắm mọi ý nghĩa của nó.
Hay như chữ 間 aida, ma, KAN (GIAN) có thể vừa:
Chỉ khoảng giữa giữa hai thời điểm: 1日と4日との間 tsuitachi to yokka to no aida
Chỉ khoảng giữa hai vật thể (không gian): 林と川との間 hayashi to kawa to no aida
Chỉ khoảng thời gian: 夏の間 natsu no aida = trong mùa hè
Chỉ quảng không gian: 茶の間 chanoma = phòng uống trà, phòng nghỉ ngơi
仲間 nakama = đồng bọn, 手間 tema = việc bận, v.v...
Tức là, người Nhật sử dụng một chữ kanji cho rất nhiều nghĩa và ngữ cảnh. Họ có thể dùng cách đọc khác nhau. Nhờ thế mà một chữ kanji có thể khá trừu tượng, vừa chỉ không gian, vừa chỉ thời gian và lại còn dùng được cho nhiều từ vựng khác. Chúng ta có thể thấy người Nhật vận dụng rất sáng tạo chữ kanji trong tiếng Nhật. Họ cũng rất tài năng khi tạo chữ hiragana và katakana từ chữ kanji ra nữa.
Chúng ta cũng không nên quên là, từ thời phong kiến (nhà Đường hay trước đó), người Nhật đã cử du học sinh sang Trung Quốc để học chữ Hán cũng như những cái hay về nước của họ. Từ đó, chữ Hán tại Trung Quốc và tại Nhật Bản đi theo hai con đường khác nhau. Ngày nay, ý nghĩa chung, trửu tượng của chữ Hán ở Nhật Bản, Việt Nam, Trung Quốc có thể gần giống nhau nhưng ý nghĩa cụ thể và cách sử dụng thường khác nhau.
Do đó, hãy luôn tra từ điển để biết ý nghĩa và cách dùng.
Coi chừng 誤字脱字
Khi dịch tiếng Nhật bạn phải để tâm vấn đề này khi thấy từ lạ hay câu văn lạ: Rất có thể văn bản gốc bị gõ sai.
誤字脱字 goji datsuji là gọi chung việc dùng sai chữ kanji (誤字 goji - NGỘ TỰ) và gõ thiếu chữ (脱字 datsuji -THOÁT TỰ).
Ví dụ 誤字: 変換 henkan (BIẾN HOÁN) thì chuyển thành 返還 henkan (PHẢN HOÀN).
Ví dụ 脱字:
Bạn gõ "unten suru" nhưng gõ nhầm là "uten suru" (thiếu "n"): 運転する => 雨天する
Bạn gõ "unnei" (để ra "un ei" vì phải gõ "nn" mới ra ん do đứng trước nguyên âm, còn đứng trước phụ âm thì tự chuyển) nhưng gõ thành "unei"
unnei => うんえい => 運営 VẬN DOANH = quản lý, vận hành (cửa hàng, v.v...)
unei => 畝意 (không có nghĩa)
思っています omotte imasu => 重いっています omoitte imasu
Hay đơn giản như 理由 riyuu (LÍ DO = lý do) gõ thành "riyu" (thiếu "u") thành 理油 riyu, tức là thành "LÝ DU".
Vấn đề gõ sai, gõ thiếu này cũng giống như gõ tiếng Việt thôi:
doanh => doahn, hoàn => haonf, v.v...
Tiếng Nhật có rất nhiều từ cùng cách đọc nhưng chữ kanji lại khác nhau. Ví dụ đoạn văn dưới đây.
Viết đúng
練習に遅れたのでコーチに怒られた�� �謝るために暑い中,帰る時まで練習� ��続けた.
Vì tới muộn buổi tập nên tôi bị huấn luyện viên cáu. Để xin lỗi tôi luyện tập giữa trời nóng cho tới lúc về nhà.
Viết sai
練習に送れたのでコーチに起こられ�� �.誤るために厚い中,買えるまで練� ��を続けた.
Vỉ gửi được đến buổi tập nên tôi bị huấn luyện viên xảy ra. Để mắc lỗi tôi luyện rập giữa lúc dày cho tới lúc mua được.
遅れた TRÌ okureta (muộn) => 送れた TỐNG okureta (gửi đi được); ngoài ra còn có 贈れた TẶNG (tặng được, 贈る okuru = tặng)
Ayamaru: 誤る = mắc lỗi, làm sai; 謝る = xin lỗi
Atsui あつい có tới mấy từ: 厚い (HẬU) dày, 熱い (NHIỆT) nóng, 暑い (THỬ) trời nóng, thời tiết nóng; ngoài ra: 篤い (bệnh) nặng
Kaeru:
帰る QUY = về nhà
買える MÃI = mua được, 買う kau = mua
変える BIẾN = thay đổi (thứ gì đó)
代える ĐẠI = thay thế, thay mặt (đại diện)
飼える TỰ = nuôi được, 飼う kau = nuôi (gà, bò, ...)
蛙 kaeru = con ếch
....
Các văn bản kỹ thuật cũng dễ nhầm vì dùng từ ghép kanji nhiều:
設置 setchi (THIẾT TRÍ) = lắp, đặt (máy móc) => 接地 setchi (TIẾP ĐỊA) = nối đất (điện)
Tức là thay vì đúng là "lắp đặt máy" thì thành "nối đất máy".
Quy tắc
Nhìn cách dùng từ, mạch văn, văn cảnh để phát hiện có từ lạ, tìm xem có khả năng bị gõ sai hay chuyển đổi kanji sai không.
Ví dụ đang nói về lắp ráp dây chuyền máy móc và từ 設置 setchi (THIẾT TRÍ) được dùng nhiều, đội nhiên lại có 接地 setchi (TIẾP ĐỊA) xuất hiện thì phải coi chừng.
dịch tiếng nhật
Leave a comment